Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

LAN MAN HẠ VỀ



Lấn bấn mãi với những việc không tên, hôm nay mới có một buổi nghỉ trưa mà không liếc xéo đồng hồ. Bất chợt một tia nắng chiếu trực diện xuyên qua cửa. Nắng không vàng, không dịu, không kèm theo cơn gió nồm mát lịm mang hơi nước từ biển thổi vào như dạo mới xuân. Nắng gắt. Cây chiêu liêu trước cửa dồn hết sức bình sinh lên ngọn, nhưng lá vẫn ỉu xìu. Đích thị mùa hạ đã về.
Mang tiếng là ở phố, nhưng nhà tôi nằm dưới chân đồi, đủ không gian và điều kiện để cảm nhận một buổi trưa mùa hạ đầy chất thôn quê giữa chốn thị thành. Có tiếng gà trưa, tiếng cu gáy rền rĩ xa xăm, tiếng chào mào lảnh lót… Tự dưng, mấy câu thơ thời trung học bật lên trong “bộ nhớ” :
  Một buổi trưa không biết ở thời nào,
  Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao,
  Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ,  (Huy Cận)
Trưa mùa hạ thật dài. Những buổi trưa như thế, hồi còn ở quê, một thứ âm thanh “gây nghiện” với tôi là tiếng kẽo kẹt võng đưa hòa với lời hát ru của mẹ. Ra chốn thị thành, nhiều khi nhớ đến quay quắt thứ âm thanh quê mộc ấy. Không ít lần tôi vào trang Bình Định điện tử, nghe hát ru con cho đỡ cơn ghiền. Nhưng đó là giọng hát của các ca sĩ chuyên nghiệp, hát để biểu diễn, để nghiên cứu, nên… trật lất. Ám ảnh nhất trong hát ru Bình Định là mấy tiếng hời…hời hoặc  hờ hồ hời  mở đầu và kết thúc ở mỗi câu hát được ngân lên một cách tròn vành rõ chữ- điều không có ở các ca sĩ chuyên nghiệp.
Như một tặng phẩm quá bất ngờ, trưa nay bỗng vang lên:  
                         Hời… hời… Một mai ai chớ (ai) bỏ ai
                         Chỉ thêu nên gấm (là) sắc mài (kim) nên kim … hời hồ hời.
Thì ra, bà ngoại của cháu bé nhà hàng xóm từ quê mới vào, mang theo một “đặc sản” chưa hề “biến đổi gen” của nông thôn Bình Định. Lời hát thô mộc, tự nhiên, đủ sức lay động bất cứ ai đã từng sống ở thôn quê.  Những buổi trưa như thế tưởng đã qua, bỗng dưng hôm nay gặp lại.
Trong xu thế đô thị hóa tràn lan, nơi khu phố của  tôi vẫn còn nguyên những trưa hè mang đậm hồn cốt thôn quê. Chút A.Q trong tôi trỗi dậy: hóa ra mình lại gặp may. 

Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

CỨU CÁNH


Promete - Gần đây, báo chí có xu hướng lạm dụng từ Hán -Việt. Tuy nhiên, không phải ai cũng sử dụng đúng . Đặc biệt, từ "cứu cánh", 10 người viết, 9 người sai. Vậy, "cứu cánh" là gì? Sau đây là bài viết của Phan Văn Thạnh tại http://newvietart.com/index922.html

                                                                                                                      PHAN VĂN THẠNH


"CỨU CÁNH” – nghĩa gốc là gì ?

Gần đây trong các bản tin,bài viết (báo mạng,báo giấy) thi thoảng người đọc vẫn bắt gặp cách hiểu,cách dùng từ “cứu cánh” chưa ổn, dẫn đến ý diễn đạt không được xác định rõ - muốn hiểu phải suy đoán nhưng chưa chắc đã trúng ý tác giả …?!
Thí dụ :
-Báo điện tử Sgtt.com- ngày 26/9/2012 chạy tít : “Mạng xã hội: một cứu cánh của ngoại giao”– Mạng xã hội (Twitter,Facebook,Youtube…),là những công cụ ngoại giao ít tốn kém mà lại hiệu quả và dễ dàng trong nhiều mục đích khác nhau.Chẳng hạn như cập nhật thiên tai,thu thập thông tin và quản lí các mối quan hệ”…( ý nói mạng xã hội là phương tiện lợi hại hỗ trợ ngoại giao…)
- Sggp.org.vn - ngày 14/9/2012 viết: “Trung tâm quốc tế về kỹ thuật di truyền và công nghệ sinh học,đánh giá thuốc Heberprot-P là một cứu cánh cho các bệnh nhân tiểu đường giai đoạn cuối”. - (ý muốn diễn đạt:thuốc Heperprot-P là phao cứu sinh của người bênh tiểu đường).
-Sggp.org.vn- ngày 12/01/2013 dẫn tiêu đề: “Nghị quyết 02/NQ-CP “cứu cánh” của doanh nghiệp bất động sản”. – (NQ 02 -(gia hạn thời hạn nộp một số loại thuế), là cái sào thò ra giữa dòng cứu các doanh nghiệp đuối nước…)
Tiếng Pháp có câu La fin justifie les moyens thường được dịch ra Việt ngữ Cứu cánh biện minh cho phương tiện - hoặc những cách dịch khác : Mục đích biện minh cho phương tiện – Mục đích cuối cùng biện minh cho phương tiện – Kết quả biện minh cho phương tiện…- Pháp Việt Từ điển của Đào Đăng Vỹ giảng :“Để đạt mục đích phương tiện gì cũng tốt”.

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

QUYỀN LẬP HIẾN VÀ TRƯNG CẦU DÂN Ý


Quyền lập hiến của nhân dân trước tiên phải là quyền được bầu chọn cơ quan soạn thảo và thông qua hiến pháp. Cơ quan đó có thể là Quốc hội Lập hiến hoặc Quốc hội thông thường, hoặc là một cơ quan lập hiến theo một mô hình nào đó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng cơ quan đó nhất thiết phải đại diện cho toàn thể nhân dân.”
Mai Thái Lĩnh

Ba năm trước đây, ông Nguyễn văn An – nguyên ủy viên Bộ chính trị (hai khóa 8 và 9), cựu Chủ tịch Quốc hội (2001-2006), đã lên tiếng đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam cho “Dân được quyền phúc quyết Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp để đúng nghĩa là người chủ đất nước”. Ý kiến này đã dấy lên cả một làn sóng tuyên truyền trong giới trí thức để đòi thực hiện “quyền phúc quyết”. Tin tức mới nhất trong những ngày gần đây cho thấy Chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến tán thành đề nghị này.[1] 

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

TRANH BÙI XUÂN PHÁI MINH HỌA THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

Đỏ tái mặt xem tranh Bùi Xuân Phái minh họa thơ Hồ Xuân Hương


Những ý thơ gợi tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương được khắc họa sinh động qua nét bút phóng khoángcủa cố danh hoạ Việt Nam.

Đó là bộ tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ theo ý thơ của Hồ Xuân Hương, được cố danh họa thực hiện từ năm 1982 đến 1986. Bộ tranh này hiện do người con trai của ông là họa sĩ Bùi Thanh Phương lưu giữ. Gầy đây, nhiều tác phẩm trong bộ tranh đã được giới thiệu trên mạng.




Thứ Ba, 12 tháng 2, 2013

Tại sao lại là ngũ quả?


      Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Người ta tìm thấy nó ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ “ngũ” nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy, tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dương tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Trong Đại từ điển, “ngũ” có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm bốn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.

      Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái cây nói chung) là thứ yếu. Do đó, theo Chiêm thư người ta thường quan sát sự tốt xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ cốc: 1) Mận chủ vào đậu; 2) Hạnh chủ về lúa mì; 3) Đào chủ vào tiểu mạch; 4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương; 5) Tảo (táo) chủ vào lúa. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.

    Quả (trái) - biểu tượng của sung túc. Trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử-hiểu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế… Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng - hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên…
                                                                                                              Huỳnh Ngọc Trảng/SGTT


Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

LÌ XÌ ( trích)

                                                                                               
    Hạo Nhiên Nghiêm Toản Thiệu Văn Thị


    Trong dịp tết Nguyên Đán chúng ta thường có lệ đặt tiền vào chiếc phong bì vàng son rực rỡ, nho nhỏ, xinh xinh, để mừng tuổi trẻ em, tiền ấy ở miền nam gọi là tiền Lì xì. Ta tự hỏi Lì xì nghĩa là gì, viết ra sao và gốc ở đâu? Để trả lời, việc đầu tiên là phải biết âm «lì» ấy tương ứng với chữ Hán nào? vì ít ra ở vùng Chợ Lớn cũng có ba lối phát âm: Triều Châu - Phúc Kiến, Quảng Đông, và Phổ thông (Quan thoại).
    «Lì» hay /li/ tương ứng với âm Hán Việt lợi, tra chữ lợi (bộ đao ) trong Trung Văn Đại Từ Điển (quyển IV, cuối trang 277 đầu trang 278), ta được danh từ «lợi thị» 利市, đọc theo âm Quan thoại là /li-che/ (Viễn Đông Bác học viện của Pháp) và theo âm pinyin là /lishi/.
Từ ngữ «lợi thị» 利市(âm Hán Việt), tức /lishi/ (âm Phổ thông) mà người mình nói «lì xì», có ba nghĩa như sau:
a. Số lời thu được do mua bán mà ra;
b. Tốt lành, có lợi. Tháng Chạp ngày 24, khắp thị tỉnh (nhà quê, kẻ chợ) đều làm lễ rước Na (để khu trừ quỷ dữ), rước Na đến khắp mọi nhà cầu xin lợi thị (theo Đông Kinh mộng hoa lục).[1] Khi người phụ nữ lấy chồng về đến cửa, mọi người đi theo cũng như người nhà đều xin lợi thị (tiền hoặc đồ vật).
c. Vận tốt, vận may. Sách Bắc mộng toả ngôn rằng: «Khi Hạ Hầu Tư 夏侯孜 chưa gặp thời, còn luân lạc linh đinh, người ta gọi Tư là viên tú tài chẳng lợi thị.»
Tóm lại, trong cả ba trường hợp, lợi thị hay lì xì đều có nghĩa là được lợi, được tiền, được may mắn. vậy thì tiền lì xì, mừng tuổi, chính là thứ tiền đem lại cái hên, đều lành, điều tốt cho trẻ em trong dịp đầu năm.
Cũng có người cho rằng lì xì là do hai chữ Hán Việt lợi đích  利的 hay lợi thị  利是 đọc theo âm Quảng Đông, nhưng xét về cách dùng chữ và văn phạm, tôi thấy không thoả đáng chút nào, dẫu sao, tôi cũng cứ nêu ra đây để chờ các bậc đại phương chỉ giáo.

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

KHÔNG ĐỀ


TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ


(Bài giảng của giáo sư Hồ Ngọc Đại tại trường viết văn Nguyễn Du). 

Năm điều cơ bản của buổi học:
1. Sự tương quan giữa triết học và lịch sử.
2. Sự tồi tệ của nghị quyết và chính sách.
3. Sự cần thiết của mở rộng/ phá bỏ tư duy cũ.
4. Phát hiện lớn nhất của con người là Công Nghệ Sinh Đẻ.
5. Ta tạo ra chính mình.
GS,TSKH HỒ NGỌC ĐẠI

          Tôi xin nói ngay là, tôi nói điều tôi nói, còn tiếp nhận hay không là việc của các anh các chị.
          Thơ dù đề là “vô đề/ không đề” thì vẫn cứ là có đề. Vậy hôm nay bài giảng của tôi có đầu đề là “Triết học và lịch sử“.
          Có hai vấn đề tôi cho là cơ bản nhất trong các vấn đề cơ bản: triết học và lịch sử. Xin nhớ cho rằng, chúng ta không mày mò điều mà nhân loại đã đi qua. Ta sinh ra thế giới đã có sẵn, anh buộc phải chấp nhận những điều có sẵn đó. Và ta phải chịu quá nhiều sức ép. Dưới những sức ép không gì cưỡng lại đó, ta cứ ngỡ là mình được tự do.

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

SỰ GẶP NHAU Ở HỒ CHÍ MINH VÀ KENNEDY VỀ MỘT CÂU NÓI

     


Năm 1955, trong Lễ khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1, Hồ Chí Minh có bài nói chuyện với những sinh viên cũng như thanh niên. Trong bài nói chuyện này có đoạn Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?

Tổng thống Mỹ John F. Kennedy sau này cũng có ý tưởng tương tự trong diễn văn nhậm chức ngày 20 tháng 1 năm 1961 tại thủ đô Washington, D.C.:
.. my fellow Americans: ask not what your country can do for you--ask what you can do for your country.
My fellow citizens of the world: ask not what America will do for you, but what together we can do for the freedom of man.
Dịch nghĩa:
... những người bạn Hoa Kỳ của tôi: đừng hỏi đất nước của bạn sẽ làm gì cho bạn -- hỏi rằng bạn đã làm gì cho đất nước của mình.

TỤC TẮM TIÊN XƯA VÀ NAY

    Nếu như ngày nay, nhiều người Việt xa lạ với tục tắm truồng thì hồi đó nó rất phổ biến như một thói quen sinh hoạt hằng ngày mà không ai phải ngượng, cũng không có gì xấu hổ hay tục bậy cả. Tục này tùy từng vùng còn tồn tại cho đến cuối thế kỷ 20 mới mất dần.
   Nhưng có gì lạ đâu? Đã tắm thì phải 'cởi' đồ, có điều sự lạ ở đây là cái 'cởi' trong nhà tắm khác cái 'cởi' ở nơi công cộng hay giữa cảnh trời bao la. Vậy thế nào là tục tắm tiên, tắm truồng?
Xưa kia, mỗi làng thường chỉ đào một giếng khơi lớn dùng để tắm giặt và một giếng sâu để lấy nước ăn, tất nhiên ngoài hai giếng chung này mỗi giáp hay mỗi gia đình nếu khá giả đều có thể đào giếng nhỏ riêng nhưng đa phần sinh hoạt của làng thường kề cận bên chợ làng hoặc giếng chung - tức là giếng làng...

Vét giếng ăn của làng ( ảnh xưa)
Cái giếng ăn của làng được thiết kể rất cẩn thận: từ đáy lên trên thành được xếp bằng những khối đá, gần lên miệng xây bằng gạch và vun cao thành rồi be bờ láng nền rất kỹ bằng vôi mật để nước trên bề mặt không ngấm xuống dưới. Miệng giếng tuy nhỏ nhưng lòng giếng khá rộng. Hồi xưa, người ta đã biết xác định nguồn nước sạch vĩnh viễn là cần thiết nên có những giếng ăn sâu từ 7 đến 15 thước hoặc hơn nữa.